1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm

Hàn Mặc Tử sinh năm 1912, mất năm 1940, tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí. Ông sinh ra trong một gia đinh trí thức nghèo theo Đạo Thiên chúa, từng làm công chức ở Bình Định, sau đó ra Sài Gòn làm báo. Năm 1936, ông mắc bệnh phong, phải về Quy Nhơn chữa trị và mất ở trại phong Quy Hòa.

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất của phong trào Thơ Mới. Thơ ông mang diện mạo hết sức phức tạp và bí ẩn, thấm đượm tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế. Các tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: “Gái Quê”, “Thơ Điên”, “Xuân như ý”, “Thương thanh khí”, “Duyên kỳ ngộ”,…

Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam”, bộ đôi Hoài Thanh – Hoài Chân đã từng nhận xét về tập “Thơ Điên” rằng: “Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp trong đấy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử ta không hiểu được và chắc chắn cũng không ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với chúa sẽ không bao giờ cho xuất bản Thơ điên. Một tác phẩm như thế ta không có thể nói hay hay dở, nó đã ra ngoài vòng dân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta đương đứng trước một người sượng sầm vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương thơm, hấp hối với tập Mật đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn toả lên nghi ngút.” Tập “Thơ Điên” (sau đổi tên thành “Đau thương”) có thể nói là một trong những tập thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, tiêu biểu và mang đậm dấu ấn cá nhân của nhà thơ. Sáng tác năm 1938 và được in trong tập thơ ấy, “Đây thôn Vĩ Dạ” được lấy cảm hứng từ tấm ảnh về phong cảnh Huế và lời hỏi thăm của Hoàng Cúc – người mà Hàm Mặc Tử ôm ấp mối tình đơn phương khi còn làm ở sở Đạc Điền.

2. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Hoài Thanh – Hoài Chân đã viết về linh hồn của Thơ Mới trong cuốn Thi nhân Việt Nam rằng: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” Cùng với các nhà thơ khác, Hàn Mặc Tử bước chân vào phong trào Thơ Mới như một loài hoa lạ. Hồn thơ của người là cái hồn điên loạn, cái hồn đắm say không biết đâu là hiện thực, đâu là mông ảo, cái hồn đớn đau hướng tình yêu của mình về cuộc đời trần thế. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ, đọc thơ Hàn Mặc Tử. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn Mặc Tử đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao …

Thi phẩm ngắn gọn, đơn sơ với ba khổ thơ, nhưng chất chứa trong đó là biết bao nhung nhớ và khát khao cuộc sống hạnh phúc đời thường, đồng thời mang theo biết bao hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, đấu tranh với bênh tật, chàng thi sĩ nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng bắt đầu từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ…

Ta vẫn thường bắt gặp ở Hàn Mặc Tử những câu hỏi khắc khoải và đớn đau thế này:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu

Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Thế nhưng với “Đây thôn Vĩ Dạ”, câu hỏi cất lên nhỏ nhẹ như một lời mời, khẽ dỗi hờn như một lời trách yêu, than thở rằng: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi ấy, chừng như là câu hỏi của người con gái Huế duyên dáng, e lệ và đáng yêu; nhưng dường như cũng là câu hỏi mà chính Hàn Mặc Tử đặt ra cho mình đầy khắc khoải. Ta thấy trong câu hỏi ấy một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó nhạt phai. Câu hỏi tưởng như một lời mời gọi, nhưng nếu đi sâu hơn, ta sẽ tìm thấy trong đó niềm đau, nỗi day dứt của thi nhân. Là “không về” chứ không phải “chưa về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. “Chưa về” nghĩa là sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghĩa rằng người đi xa sẽ lại trở về thăm lại mảnh đất thân thương của mình. Nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, ta trông thấy nỗi chia ly mà không gì san lấp được, người “không về”, bởi trong cơn bạo bệnh, thi nhân tự biết rằng mình không còn cơ hội về lại mảnh đất xứ Huế yêu thương. Đồng thời sử dụng từ “về chơi”, Hàn Mặc Tử đặt mình vào vị trí người khách phương xa, tự mình đoạn tuyệt với mảnh đất đã từng gắn bó máu thịt với cuộc đời mình. Người chẳng còn thuộc về xứ Huế nữa, với Huế bây giờ, với thôn Vĩ, người chỉ còn là người khách không ghé về chơi mà thôi. Cuộc hành hương trong tâm tưởng được thi nhân vẽ nên với tư cách là một người khách, song đứng ở tâm thế của người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, không phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.

Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới. Cái “mướt” mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng nhắc cho ta nhớ rằng dù vườn thơ Hàn Mặc Tử có điên loạn đến đâu, người vẫn giữ cho mình một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn Mặc Tử cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương…

Nằm bên bờ sông Hương êm đềm, nhắc về Huế là nhớ về cảnh sông nước dưới trăng. Dòng trăng ấy chảy qua Huế, qua tâm hồn những người con xứ Huế, trở thành một mảnh hồn riêng nơi đây. Hiểu thấu và thấy được mảnh hồn riêng ấy, Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc du ngoạn đến một miền không gian khác, để chiêm ngưỡng một Huế khác, đẹp nhưng lặng buồn:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.

Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Mối sầu chia ly trong câu thơ, dẫu rằng đã được ý nhị giấu kín, song vẫn khóc nấc lên từng nhịp thổn thức. Lẽ thường gió thổi mây bay, gió mây xưa nay vẫn luôn là một cặp. Ấy nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, gió mây ngậm ngùi chia đôi ngả. Đó là gió, là mây hay là một cặp tình nhân chia ly bỏ lại mối tình dang dở? Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia ly. Mối sầu đeo trên câu thơ ấy nặng tới mức nỗi buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Nỗi buồn ấy không cuồng dại hóa thành nỗi đau như ta thường thấy trong thơ Hàn Mặc Tử, buồn chỉ là buồn thôi, nhưng lặng câm và tuyệt vọng. Nỗi buồn ấy làm choáng ngợp tâm hồn, gọi lên nỗi nhớ mong không thể làm chủ, khiến cho hai câu thơ sau dường như huyền hồ hư ảo, cảnh như đến trong tưởng tượng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Khác với ánh trăng lạnh lùng điên dại xuất hiện trong phần sau của tập “Thơ Điên”, ánh trăng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” buồn, nét buồn man mác bình dị. Hàn Mặc Tử lúc này cũng chưa hòa vào trăng, đi trong trăng, người chìm vào mộng mị, đặt cho mình một câu hỏi mà biết trước sẽ không có lời đáp.  Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng.

Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại. Sự phấp thỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia. Thi nhân trông đợi có lẽ là trăng, nhưng có lẽ cũng là tình đời, tình người. Nỗi cô đơn trong những ngày bạo bệnh hành hạ người, nó cách ly người khỏi cuộc đời, khỏi những người thân yêu, chia cách người với tất cả những hoài bão và tình yêu dang dở. Thứ duy nhất còn lại bên người là thơ và trăng. Bởi vậy mà người chờ mong trăng, chờ mong ở con thuyền trong tưởng tượng sẽ mang về cho người những điều mà người khao khát. Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu trông đợi. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân mơ hồ hiện ra ở khổ thơ thứ hai, rồi cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn Mặc Tử, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời thi nhân tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời. Bởi vậy mà ta vẫn luôn chắc chắn rằng, Hàn Mặc Tử điên dại trong thơ, hóa cuồng si trong thơ, đau đớn tột cùng cũng chỉ bởi cô đơn. Điều duy nhất mà người hướng về, tình yêu tối cao của người là tình yêu cuộc đời, khát khao sự sống.

Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không “kì dị” như bao người nói. Chàng thi sĩ ấy có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất trong thế giới thơ Hàn Mặc Tử.

Hàn Mặc Tử đã rời khỏi trần thế rất lâu, nhưng hồn thơ của người vẫn còn mãi đời đời trên trang giấy. Đúng như Chế Lan Viên đã từng nói, rằng “Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Tâm hồn Hàn Mặc Tử sẽ còn gặp gỡ, giao hòa với triệu triệu tâm hồn bạn đọc, giao cho bạn đọc khát khao được sống đến điên dại trên từng con chữ, hát mãi, hát mãi một bài ca yêu thương cuộc đời.

Rong Ba Bakery vừa chia sẻ đến bạn đọc bài viết Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất. Hy vọng bài viết đã cung cấp đến bạn đọc những thông tin hữu ích. Rong Ba Bakery xin trân trọng cảm ơn!